Jump to content

Six Provinces of Southern Vietnam

From Wikipedia, the free encyclopedia
Southern Vietnam during the Nguyễn dynasty before 1841. Cần Vột (Kampot), Vũng Thơm (Kampong Saom) and Svay Rieng (triangular wedge protruding into Vietnam known as the "Parrot's Beak") would later be ceded by French colonials to Cambodia. Cao Mien = Cambodia. Biển Đông = vi: East Sea. Nam Vang = Phnom Penh. Koh Kong was annexed by Siam until being returned to French Cambodia.
Map of Southern Vietnam in 1883 as part of French Indochina, however following the administrative divisions of the 1832–1862 Nguyễn dynasty's Nam Kỳ Lục Tỉnh.
Basse Cochinchine map

The Six Provinces of Southern Vietnam (Vietnamese: Nam Kỳ Lục tỉnh, 南圻六省 or just Lục tỉnh, 六省) is a historical name for the region of Southern Vietnam, which is referred to in French as Basse-Cochinchine (Lower Cochinchina).[1] The region was politically defined and established after the inauguration of the Nguyễn dynasty, and called by this name from 1832, when Emperor Minh Mạng introduced administrative reforms, to 1867, which culminated in the eight-year French campaign to conquer the Six Provinces.

The six provinces, which in 1832 Emperor Minh Mạng divided Southern Vietnam into, are:

These provinces are often subdivided into two groups: the three eastern provinces of Gia Định, Định Tường, and Biên Hòa; and the three western provinces of Vĩnh Long, An Giang, and Hà Tiên.

History

[edit]
French Cochinchina (Basse Cochinchine Française) in 1881, based on the Nguyễn dynasty's Six Provinces before 1861. The northern bank of Vĩnh Tế Canal and the Parrot's Beak of Svay Rieng were ceded to the Cambodian Kingdom.

The Mekong Delta region (the location of the Six Provinces) was gradually annexed by Vietnam from the Khmer Empire starting in the mid 17th century to the early 19th century, through their Nam tiến territorial expansion campaign.[citation needed] In 1832, Emperor Minh Mạng divided Southern Vietnam into the six provinces Nam Kỳ Lục tỉnh.

According to the Đại Nam nhất thống chí (Nguyễn dynasty national atlas) of the Quốc sử quán (official Nguyễn-era compilation of Vietnamese history, geography and people from 1821 to 1945), in 1698 the lord Nguyễn Phúc Chu established the prefecture (phủ) of Gia Định. In 1802, emperor Gia Long turned Gia Định prefecture into a township, and in 1808, he renamed Gia Định prefecture into a governorate containing the five townships of Phiên An, Biên Hòa (or Đồng Nai), Định Tường, Vĩnh Thanh (or Vĩnh Long), and Hà Tiên. In 1832, emperor Minh Mạng renamed Phiên An Citadel into Gia Định Citadel, and the 5 townships were turned into the six provinces of Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, Hà Tiên, and the newly established An Giang. Thus, the Six Provinces was created in 1832; and in 1834 the Six Provinces were collectively called Nam Kỳ ("Southern Region", which would eventually be known in the West as Cochinchina). Phiên An province was renamed to Gia Định province in 1835.[2]

After the French colonial invaders, led by vice-admiral Charles Rigault de Genouilly attacked and captured the three eastern provinces of Gia Định, Định Tường, and Biên Hòa in 1862, and invaded the remaining western provinces of Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên in 1867, the French Empire abolished the administrative divisions created by the Nguyễn dynasty. At first, the French used départements instead of prefectures, and arrondissements in place of districts (huyện).[3] By 1868, the former Nam Kỳ Lục tỉnh had over 20 arrondissements (districts). Cochinchina was ruled by a French government-appointed governor in Saigon, and each county had a Secrétaire d’Arrondissement (en: "County Secretary", vi: "thư ký địa hạt" or "bang biện"). Bạc Liêu county was created in 1882. On 16 January 1899, the counties were changed into provinces per a French government decree, each with a provincial premier (fr: "chef de la province", vi: "chủ tỉnh") who is head of provincial government.

French division into 21 smaller provinces, discontinuation of the Six Provinces

[edit]

The French government divided the original six provinces into 21 smaller ones. Following the 1899 decrees, starting 01/01/1900 Nam Kỳ would be divided into the following 21 provinces:

The reason for this division into 21 provinces[4] was because the French Empire intended to erase the name "Lục tỉnh" from the hearts and minds of the Vietnamese people and language, and cut any feelings of attachment and Vietnamese nationalism with this region to avert potential local revolution or rebellion. However, in 1908 the newspaper Lục Tỉnh Tân Văn ("Six Provinces News") whose editor was Gilbert Trần Chánh Chiếu, still commonly used the names "Lục Tỉnh" and "Lục Châu". The French Empire called Southern Vietnam (Nam Kỳ) Cochinchine, Northern Vietnam (Bắc Kỳ) Tonkin and Central Vietnam (Trung Kỳ) Annam. "Cochinchina" was the name used by English speakers at the time.[5]

Administrative divisions

[edit]
Biên Hòa province Gia Định province Định Tường province Vĩnh Long province An Giang province Hà Tiên province
Phước Long (Dô Sa) Prefecture

Counties:

  • Phước Chính
  • Phước Bình
  • Bình An
  • Nghĩa An
Tân Bình (Sài Gòn) Prefecture

Counties:

Kiến An (Cai Tài Market) Prefecture

Counties:

  • Kiến Hưng
  • Kiến Hòa
Định Viễn (Vĩnh Long) Prefecture

Counties:

  • Vĩnh Bình
  • Vĩnh Trị
Tuy Biên Prefecture

Counties:

  • Tây Xuyên
  • Phong Phú
  • Hà Dương
  • Hà Âm

(Hà Âm county, which is north of Vĩnh Tế Canal, is now part of Takéo province, Cambodia).

An Biên Prefecture

Counties:

Phước Tuy (Mô Xoài) Prefecture

Counties:

Tân An Prefecture (later split into):
  • Tân An (Vũng Gù) Prefecture, and
  • Hòa Thạnh (Gò Công) Prefecture

Counties:

  • Cửu An (Vũng Gù), later in Tân An Prefecture
  • Phúc Lộc (Cần Giuộc), later in Tân An Prefecture
  • Tân Hòa (Gò Công), later in Hòa Thạnh Prefecture
  • Tân Thịnh (Kỳ Son), later in Hòa Thạnh Prefecture
Kiến Tường (Cao Lãnh) Prefecture

Counties:

  • Kiến Phong
  • Kiến Đăng
Hoằng Trị (Bến Tre) Prefecture

Counties:

  • Bảo Hựu
  • Bảo An
  • Tân Minh
  • Duy Minh
Tân Thành Prefecture

Counties:

Quảng Biên Prefecture (which formerly included today's Cambodian provinces of Kampot (vi: Cần Vột), Kep, and Sihanoukville (Kampong Som) (vi: Vũng Thơm)).

Counties:

- Tây Ninh Prefecture (which formerly included Svay Rieng province in Cambodia today)

Counties:

- Lạc Hóa (Chà Vinh) Prefecture

Counties:

Ba Xuyên Prefecture

Counties:

  • Phong Nhiêu
  • Vĩnh Định
  • Phong Thịnh
-

Sources for entire table:[1][6]

See also

[edit]

References

[edit]
  1. ^ a b Trương, Jean Baptiste Pétrus Vĩnh Ký. "Petit cours de géographie de la Basse-Cochinchine (Small Course on Lower Cochinchina Geography)". Bibliothèque nationale de France (National Library of France). Retrieved 4 January 2014.
  2. ^ Đại Nam Nhất Thống Chí. Volume 5. Phạm Trọng Điềm dịch. Đào Duy Anh hiệu đính (Nxb Thuận Hóa, 1992, trang 122, 133, 200, 201). Tuy nhiên, sử Nguyễn là Quốc triều sử toát yếu (tr. 205) và Nguyễn Đình Đầu ("Địa lý lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh", trong Đại chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (tập 1). Nxb TP. HCM, 1987, tr. 209) đều cho rằng: "Tháng 5 (âm lịch) năm Quý Tỵ (1833), Lê Văn Khôi khởi binh chiếm thành Phiên An. Tháng 8 (âm lịch) năm đó, vua Minh Mạng cho đổi tỉnh Phiên An thành tỉnh Gia Định".
  3. ^ Bulletin de la Société des Études Indochinoises (Nouvelle série, Tome XX). Sài Gòn: 1945, p. 16.
  4. ^ Sau này, ngày 11 tháng 5 năm 1944, Pháp lập tỉnh thứ hai mươi hai là Tân Bình, gồm một phần tỉnh Gia ĐịnhChợ Lớn nhập lại.
  5. ^ Để tham khảo, sau đây là cách giải thích của Nguyễn Đình Đầu (“Thay lời giới thiệu”, in trong: Pierre Pegneaux de Béhaine Bá Đa Lộc Bỉ Nhu, Tự Vị An Nam La Tinh. Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch và giới thiệu. Nxb Trẻ, 1999, tr: 5-6.): “Chúng ta có thể tóm tắt: địa danh COCINCINA chia ra làm hai phần COCIN và CINA. Cocin nguyên trước là Co Ci, do phiên âm hai tiếng Giao Chỉ mà thành (vì thế Tự Vị An Nam La Tinh mới dịch Người Giao Chỉ là Cocincinenses). Còn Cina thì bởi âm Sin hay Ts’inn và người mình đọc là Tần mà ra. Bên Ấn Độ có một thành phố tên COCHIN, sợ lẫn với Cochi hay Cochin, nên phải ghi rõ “Giao Chỉ (gần) Tần” và chữ Latinh ghi thành COCINCINA (mà người Nhật hay Trung Hoa ghi ra Giao Chỉ Chi Na). Trên các bản đồ Tây phương vẽ Đông Nam Á, từ trước cho tới thế kỷ 17, đều ghi trên địa phận nước ta tên COCINCINA, CAUCHINCHINA, COCHINCHINA, COCHIN-CHINE hoặc dạng tự nào đại khái như thế để nói lên đó là xứ GIAO CHỈ GẦN NƯỚC TẦN. Do đó, ta có thể đoán địa danh ấy đã xuất hiện từ khi nước ta gọi là quận Giao Chỉ bị nhà Tần đô hộ. “Từ đầu thế kỷ 17, hai họ Trịnh–Nguyễn tranh giành quyền lực, phân chia nước ta thành hai vùng cai trị Đàng TrongĐàng Ngoài, lấy sông Gianh làm ranh giới phân ly. Trên bản đồ cũng như trong văn kiện, người Tây phương gọi Đàng Ngoài là TUNQUYN (hoặc nhiều dạng tương tự như TUMQUYN, TUNKIN, TONGKING, TONKIN...) tức lấy tên thủ đô ĐÔNG KINH để gọi bao quát cả Đàng Ngoài. Còn Đàng Trong thì họ vẫn dùng tên cũ COCINCINA mà gọi. Đàng Trong dưới thời Đắc Lộ (Từ Điển Việt-Bồ-La) rộng từ sông Gianh tới núi Đá Bia ở dinh Phú Yên. Trên một thế kỷ sau – thời của Bỉ Nhu với Tự Vị An Nam La Tinh –, địa danh COCINCINA lại chỉ thêm phần đất phương nam rất rộng lớn. Phần Nam Bộ xưa được mệnh danh là xứ Đồng Nai. Năm 1698, xứ Đồng Nai được thiết lập phủ huyện. Phủ GIA ĐỊNH tồn tại suốt từ đó đến năm 1800 và bao gồm toàn thể đất Nam Bộ. (...) Lại từ sau 1885, khi Pháp đã chiếm hết Việt Nam, Pháp chia cắt nước ta thành ba khúc và mệnh danh: TONKIN là BẮC KỲ ANNAM là TRUNG KỲ COCHINCHINE là NAM KỲ “Cả ba địa danh Đông Kinh, An Nam, Giao Chỉ (gần) Tần đã bị Tây ngữ hóa và đặt tên cho những phần đất chẳng ăn nhằm gì với ý nghĩa của nguyên ngữ.”
  6. ^ Đại Nam nhất thống chí, quyển XXXI, tỉnh Gia Định, trang 204.

Further reading

[edit]
  • Choi Byung Wook (2004). Southern Vietnam under the Reign of Minh Mang (1820–1841): Central Policies and Local Response. Ithaca, NY: Cornell University Press.
[edit]