Jump to content

Draft:Văn hoá Natufian

From Wikipedia, the free encyclopedia
Natufian culture
A map of the Levant with Natufian regions across present-day Israel, Palestine, Jordan, and a long arm extending into Lebanon and Syria
Geographical rangeLevant, Western Asia
PeriodEpipaleolithic
Dates15,000–11,500 BP
Type siteShuqba cave, in Wadi Natuf
Major sitesShuqba cave, Ain Mallaha, Ein Gev, Tell Abu Hureyra
Preceded byKebaran, Mushabian
Followed byNeolithic: Khiamian, Shepherd Neolithic

Văn hoá Natufian (/nəˈtfiən/[1]) là một nền văn hóa khảo cổ thời đại đồ đá cũ trên của thời tiền sử thời đại đồ đá mới[2] LevantTây Á, có niên đại khoảng 15.000 đến 11.500 năm trước[3] Nền văn hóa này khác thường ở chỗ nó hỗ trợ một nhóm dân cư định cư hoặc bán định cư tại vùng đất ngay cả trước khi có nông nghiệp xuất hiện. Các cộng đồng Natufian có thể là tổ tiên của những người đã xây dựng các khu định cư thời kỳ đồ đá mới đầu tiên của khu vực, có thể là những khu định cư sớm nhất trên thế giới. Một số bằng chứng cho thấy nền văn hóa Natufian đã chủ động trồng ngũ cốc, đặc biệt là lúa mạch đen, tại Tell Abu Hureyra, địa điểm có bằng chứng sớm nhất về sản xuất nông nghiệp trên thế giới.[2] Bằng chứng lâu đời nhất thế giới về việc sản xuất một loại thực phẩm giống bánh mì đã được tìm thấy tại Shubayqa 1, một địa điểm có niên đại 14.400 năm ở sa mạc đông bắc Jordan, 4.000 năm trước khi nền nông nghiệp xuất hiện ở Tây Nam Á.[4] Ngoài ra, bằng chứng lâu đời nhất được biết đến về hoạt động nấu bia, có niên đại khoảng 13.000 năm cách ngày nay, được tìm thấy trong Hang Raqefet trên Núi Carmel, mặc dù cặn bã liên quan đến bia có thể chỉ là kết quả của quá trình lên men tự phát.[5][6]

Tuy nhiên, nhìn chung, người Natufian khai thác ngũ cốc hoang dã và săn bắt động vật, đặc biệt là linh dương gazen. Phân tích khảo cổ học phát hiện ra nguồn gốc của người Levantine sau này (thời kỳ đồ đá mới đến thời kỳ đồ đồng) chủ yếu từ người Natufian, bên cạnh sự pha trộn đáng kể từ người Anatolian thời đại đồ đồng đá.[7]

Dorothy Garrod đã đặt ra thuật ngữ Natufian dựa trên cuộc khai quật của bà tại hang động Shuqba (Wadi an-Natuf) gần thị trấn Shuqba.

Thám hiểm

[edit]
Dorothy Garrod (centre) thám hiểm văn hoá Natufian năm 1928

Nền văn hóa Natufian được nhà khảo cổ học người Anh Dorothy Garrod phát hiện trong quá trình khai quật hang Shuqba ở Đồi Judaean, trên Bờ Tây Sông Jordan.[8] Trước những năm 1930, phần lớn công việc khảo cổ diễn ra ở Palestine thuộc Anh là khảo cổ học Kinh thánh tập trung vào các giai đoạn lịch sử và vì vậy người ta biết rất ít về thời tiền sử của khu vực này.

Năm 1928, Garrod được Trường Khảo cổ học Anh tại Jerusalem (BSAJ) mời khai quật hang Shuqba, nơi các công cụ bằng đá thời tiền sử đã được Père Mallon phát hiện bốn năm trước đó. Bà đã phát hiện ra một lớp kẹp giữa các trầm tích thời kỳ đồ đá cũ và đồ đồng muộn, đặc trưng bởi sự hiện diện của các vi thạch (một loại đá cứng màu xám hình nhỏ bao gồm gần như tinh khiết một loại đá cứng, tối màu, đục, tinh thể có nhiều dạng khác nhau, với kết cấu vô định hình hoặc hạt mịn dưới kính hiển vi. Nó chủ yếu xuất hiện dưới dạng các nốt sần trong đá vôi, thường là một phần của công cụ tổng hợp như giáo). Bà xác định điều này thuộc về thời kỳ đồ đá giữa, một thời kỳ chuyển tiếp giữa thời kỳ đồ đá cũthời kỳ đồ đá mới, được thể hiện rõ ở châu Âu nhưng vẫn chưa được tìm thấy ở Cận Đông. Một năm sau, khi phát hiện ra những vật liệu tương tự tại el-Wad Terrace, Garrod đã gợi ý cái tên "nền văn hóa Natufian", theo tên Wadi an-Natuf gần Shuqba.

Trong hai thập kỷ tiếp theo, Garrod đã tìm thấy hiện vật Natufian tại một số cuộc khai quật tiên phong của bà ở khu vực Núi Carmel, bao gồm el-Wad, Kebara và Tabun, giống như nhà khảo cổ học người Pháp René Neuville, gây dựng vững chắc nền văn hóa Natufian trong niên đại tiền sử của khu vực. Ngay từ năm 1931, cả Garrod và Neuville đều chú ý đến sự hiện diện của lưỡi liềm đá trong các tổ hợp Natufian và khả năng rằng điều này đại diện cho một nền nông nghiệp rất sớm.[8]

Văn hoá Natufian xuất hiện vào thời điểm xảy ra Ấm lên Bølling–Allerød, trước khi nhiệt độ giảm mạnh trở lại trong thời kỳ Younger Dryas.Nhiệt độ sẽ tăng trở lại vào cuối thời kỳ Younger Dryas, cùng với sự khởi đầu của thời kỳ Holocen và thời kỳ đồ đá mới. Khí hậu và sự mở rộng sau kỷ băng hà ở Cận Đông, dựa trên phân tích lõi băng Greenland.[9]

Phương pháp xác định niên đại bằng cacbon phóng xạ cho thấy nền văn hóa Natufian có niên đại từ cuối kỷ Pleistocene đến đầu kỷ Holocene, khoảng thời gian từ năm 12.500 đến năm 9.500 trước Công nguyên.

Thời kỳ này thường được chia thành hai tiểu thời kỳ: Natufian sớm (12.000–10.800 TCN) và Natufian muộn (10.800–9.500 TCN). Thời kỳ Natufian muộn rất có thể xảy ra cùng lúc với Younger Dryas (10.800 đến 9.500 TCN). Levant là nơi sinh sống của hơn một trăm loại ngũ cốc, trái cây, hạt và các bộ phận ăn được khác của thực vật, và hệ thực vật của Levant trong thời kỳ Natufian không phải là cảnh quan khô cằn, cằn cỗi và đầy gai góc như ngày nay, mà là rừng.

Tiền thân và các nền văn hóa liên quan

[edit]

Văn hoá Natufian phát triển trong cùng khu vực với nền văn hóa Kebaran trước đó. Nó thường được coi là nền văn hóa kế thừa, phát triển từ các yếu tố trong nền văn hóa trước. Cũng có những khu chế tác khác trong khu vực, chẳng hạn như nền văn hóa Mushabian của Negev và Bán đảo Sinai, đôi khi được phân biệt với nền văn hóa Kebaran, được cho là có liên quan đến sự phát triển của nền văn hóa Natufian.

Nói chung, người ta đã thảo luận về những điểm tương đồng giữa các nền văn hóa này với những nền văn hóa được tìm thấy ở vùng duyên hải Bắc Phi. Graeme Barker lưu ý rằng có: "những điểm tương đồng trong các hồ sơ khảo cổ học tương ứng của nền văn hóa Natufian ở Levant và của những người kiếm ăn đương thời ở vùng duyên hải Bắc Phi trên khắp ranh giới cuối kỷ Pleistocene và đầu kỷ Holocene". Theo Isabelle De Groote và Louise Humphrey, người Natufian thực hành phong tục của người Iberomaurusian và Capsian là đôi khi nhổ răng cửa hàm trên (răng cửa trên).[10] Văn hoá Phùng Nguyên của Việt Nam cũng có xuất hiện đặc điểm này.

Cối xay từ nền văn hóa Natufian, đá mài từ thời kỳ tiền đồ gốm thời kỳ đồ đá mới (Bảo tàng Dagon)

Ofer Bar-Yosef lập luận rằng có những dấu hiệu ảnh hưởng từ Bắc Phi đến Levant, dẫn chứng kỹ thuật microburin và "các dạng vi thạch như lưỡi dao cong và mũi La Mouillah". Nhưng nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng sự hiện diện của lưỡi dao cong, mũi La Mouillah và việc sử dụng kỹ thuật microburin đã xuất hiện rõ ràng trong ngành chế tạo của Nebekian ở Đông Levant.[11] Maher và cộng sự đã nêu rằng, "Nhiều sắc thái công nghệ thường được coi là quan trọng trong thời kỳ Natufian đã xuất hiện trong thời kỳ đầu và giữa EP [Epipalaeolithic - Thời đại đồ đá cũ trên] và trong hầu hết các trường hợp, không đại diện cho sự thay đổi nguồn gốc về kiến ​​thức, truyền thống hoặc hành vi."[12]

Các tác giả như Christopher Ehret đã xây dựng giả thuyết dựa trên một số lượng nhỏ bằng chứng hiện có để xây dựng kịch bản về việc sử dụng thực vật tập trung đầu tiên ở Bắc Phi, như một tiền thân của sự phát triển của nền nông nghiệp thực sự ở Fertile Crescent, nhưng những đề xuất như vậy được coi là mang nhiều tính suy đoán cho đến khi có thể thu thập thêm nhiều hơn bằng chứng khảo cổ học ở Bắc Phi. Trên thực tế, Weiss và cộng sự đã chỉ ra rằng việc sử dụng thực vật tập trung sớm nhất được biết đến là ở Levant cách đây 23.000 năm tại địa điểm Ohalo II.[13][14][15]

Nhà nhân chủng học C. Loring Brace (1993) đã phân tích chéo các đặc điểm đo sọ của các mẫu vật Natufian với các đặc điểm của nhiều nhóm cổ đại và hiện đại khác nhau từ Cận Đông, Châu Phi và Châu Âu. Mẫu Natufian thời kỳ đồ đá cũ trên (Epipalaeolithic - 20.000 - 10.000 BP) thế Canh Tân muộn được mô tả là có vấn đề do số lượng nhỏ (chỉ gồm ba nam và một nữ), cũng như thiếu mẫu so sánh từ những hậu duệ của người Natufian ở Cận Đông thời kỳ đồ đá mới. Brace quan sát thấy rằng các hóa thạch Natufian có đặc điểm nằm giữa các hóa thạch của nhóm nói tiếng Niger–Congo được đưa vào và các mẫu khác (Cận Đông, Châu Âu), điều mà ông cho rằng có thể chỉ ra ảnh hưởng của vùng cận Sahara trong cấu tạo của họ.[16] Phân tích DNA cổ đại tiếp theo của hài cốt Natufian do Lazaridis và cộng sự thực hiện (2016) phát hiện ra rằng các mẫu vật thay vào đó là sự pha trộn của 50% thành phần tổ tiên của người Á Âu cơ bản (xem Khảo cổ học di truyền) và 50% quần thể thợ săn hái lượm vô danh (UHG) Tây Âu Á có liên quan đến thợ săn hái lượm phương Tây châu Âu.

Natufians cũng được các nhà nhân chủng học miêu tả như là dân cư Tiền - Địa Trung Hải.[17][18]

Theo Bar-Yosef và Belfer-Cohen, "Có vẻ như một số đặc điểm thích nghi trước đó, vốn đã được người Kebaran phát triển, những hình dạng đặc trưng hoặc các đường nét trang trí của quần thể người Kebaran trong khu rừng Địa Trung Hải, đã đóng vai trò quan trọng trong sự xuất hiện của hệ thống kinh tế xã hội mới được gọi là văn hóa Natufian."[19]

Định cư

[edit]
Epipalaeolithic Near East lều tạm (Şanlıurfa Bảo tàng)

Định cư xảy ra chủ yếu tại IsraelPalestine. Nơi này có thể được coi là vùng cốt lõi của nền văn hóa Natufian, nhưng Israel là nơi được khai quật thường xuyên hơn những nơi khác nên có số lượng địa điểm nhiều hơn.[20] Trong những năm qua, nhiều địa điểm đã được tìm thấy bên ngoài vùng lõi của Israel và Palestine, trải dài đến những nơi hiện nay là Syria, Lebanon, Jordan, Bán đảo Sinai và sa mạc Negev.[20] Các khu định cư trong nền văn hóa Natufian lớn hơn và lâu dài hơn so với các nền văn hóa trước đó. Một số địa điểm Natufian có kiến ​​trúc xây bằng đá; Ain Mallaha là một ví dụ về các công trình bằng đá tròn.[21] Các địa điểm hang động cũng thường được nhìn thấy trong nền văn hóa Natufian. El Wad là một địa điểm hang động Natufian có dấu tích sinh hoạt phía trước hang động, còn được gọi là "sân thượng".[22] Một số địa điểm Natufian nằm ở các khu vực rừng/thảo nguyên và một số khác gần các ngọn núi nội địa. Các khu định cư Natufian dường như là nơi đầu tiên có bằng chứng về việc lưu trữ thực phẩm; không phải tất cả các địa điểm Natufian đều có cơ sở lưu trữ, nhưng chúng đã được xác định tại một số địa điểm nhất định.[23] Người Natufian cũng được cho là đã đến thăm đảo Síp, đòi hỏi họ phải di chuyển qua những khoảng cách đáng kể trên mặt nước.[24]

Phan còn lại của một ngôi nhà Natufian

Chất liệu văn hoá

[edit]
Tình nhân Ain Sakhri, tại Ain Sakhri, gần Bethleem (British Museum1958,1007.1 )

Đồ đá

[edit]

Natufian có một kỹ thuật vi thạch tập trung vào các lưỡi dao ngắn và lưỡi dao nhỏ. Kỹ thuật microburin đã được sử dụng. Các vi thạch hình học bao gồm các khối vảy lunate, (Theo thuật ngữ chuyên ngành về khử đá, vảy lunate là một loại vảy nhỏ, hình lưỡi liềm được lấy ra từ một công cụ bằng đá trong quá trình tạo vảy bằng áp lực), hình thang và hình tam giác. Họ cũng có cả những lưỡi dao hỗ trợ. Một kiểu chỉnh sửa đặc biệt (Helwan retouch) là đặc trưng của Natufian thời kỳ đầu. Vào cuối thời Natufian, mũi tên Harif, một đầu mũi tên điển hình được làm từ lưỡi kiếm thông thường, đã trở nên phổ biến ở Negev. Một số học giả[who?] sử dụng để định nghĩa một văn hoá tách biệt, Harifian.

Lưỡi liềm cũng xuất hiện lần đầu tiên trong kỹ thuật chết tác đồ đá Natufian. Độ bóng hình lưỡi liềm đặc trưng cho thấy chúng được sử dụng để cắt thân cây ngũ cốc giàu silica, gián tiếp gợi ý về sự tồn tại của nền nông nghiệp mới chớm nở. Máy nắn thẳng cán làm bằng đá mài cho thấy hoạt động bắn cung. Ngoài ra còn có cối nghiền bằng đá mài nặng.

Nghệ thuật

[edit]

Tình nhân Ain Sakhri, hiện vật đá điêu khắc được trưng bày tại bảo tàng Anh, là một miêu tả cổ đại nhất từng thấy về một cặp đôi đang âu yếm nhau. Nó được tìm thấy tại hang Ain Sakhri ở sa mạc Judean .

Mộ táng

[edit]
Mộ táng Natufian – Homo 25 from el-Wad Cave, Mount Carmel, Israel (bảo tàng Rockefeller)

Đồ tùy táng Natufian thường được làm bằng vỏ sò, răng (của hươu đỏ), xương và đá. Ngoài ra còn có mặt dây chuyền, vòng tay, vòng cổ, hoa tai và đồ trang trí thắt lưng.

Sơ đồ hình người làm bằng đá cuội, từ Eynan, Natufian sớm, 12.000 trước Công nguyên

Năm 2008, một ngôi mộ có niên đại 12.400–12.000 TCN của một phụ nữ Natufian được cho là có ý nghĩa quan trọng đã được phát hiện trong một hố nghi lễ ở hang động Hilazon Tachtit ở miền bắc Israel.[25] Các phương tiện truyền thông đưa tin người này được gọi là "pháp sư". Ngôi mộ chứa hài cốt của ít nhất ba con bò rừng châu âu, 86 con rùa, tất cả đều được cho là đã được mang đến địa điểm này trong một bữa tiệc tang lễ. Cơ thể được bao quanh bởi mai rùa, xương chậu của một con báo, cẳng chân của một con lợn rừng, đầu cánh của một con đại bàng vàng và hộp sọ của một con chồn sồi.[26]

Trao đổi đường dài

[edit]

Tại Ain Mallaha (ở miền Bắc Israel), người ta đã tìm thấy obsidian (đá núi lửa cứng, sẫm màu, giống như thủy tinh) của Anatolian và động vật có vỏ từ thung lũng sông Nile. Nguồn gốc của hạt malachite (một loại khoáng chất màu xanh lá cây tươi sáng bao gồm đồng hydroxyl carbonate. Nó thường xuất hiện ở dạng khối và kết tụ dạng sợi với azurite và có khả năng đánh bóng cao) vẫn chưa được biết đến. Người Natufians thời kỳ đồ đá mới đã mang những quả sung parthenocarpic từ Châu Phi đến góc đông nam của Fertile Crescent xem Lưỡi liềm màu mỡ, khoảng năm 10.000 trước Công nguyên.[27]

Tìm kiếm khác

[edit]

Có một ngành chế tác xương phong phú, bao gồm cả lao móc và lưỡi câu. Đá và xương được chế tác thành mặt dây chuyền và các đồ trang trí khác. Có một số bức tượng người làm bằng đá vôi (El-Wad, Ain Mallaha, Ain Sakhri), nhưng chủ đề yêu thích của nghệ thuật có vẻ là động vật. Người ta đã tìm thấy các hộp đựng làm bằng vỏ (trứng?) đà điểu ở Negev.

Năm 2018, "Nhà máy" chế tạo bia lâu đời nhất được tìm thấy, với vết tích của bia có niên đại 13,000 tuổi, trong một hang động tiền sử Haifa tại Israel khi mà người nhà khai quật đang tìm kiếm những manh mối về các loại thực vật mà người Natufian đã tiêu thụ. Sớm hơn 8,000 năm so với hình dung của các chuyên gia về thời điểm bia được phát minh.[28]

Một nghiên cứu được xuất bản năm 2019 cho thấy một kĩ thuật tiên tiến trong việc sản xuất vôi vữa trong một nghĩa trang Natufian ở địa điểm Nahal Ein Gev II tại Upper Jordan Valley có niên đại 12 ngàn (đã hiệu chuẩn) năm trước ngày nay [k cal BP]. Sản xuất vừa thạch cao của trình độ này đã được cho là phải mãi đến 2000 năm sau đó.[29]

Sinh tồn

[edit]
Chày và cối tại Nahal Oren, Natufian, 12,500–9500 BC

Người Natufian sống bằng săn bắt và hái lượm. Sự bảo tồn của các dấu tích còn lại của thực vật là nghèo nàn do điều kiện đất, những ở một vài điểm như Tell Abu Hureyra một lượng đáng kể những vết tích thực vật được tìm thấy thông qua tuyển nổi đã được khai quật.[30] Tuy vậy những loại ngũ cốc hoang dã như là các loại cây họ đậu, hạnh nhân, sồihạt hồ trăn đã được thu thập tại khắp các vùng Levant. Những xương động vật cho thấy Linh dương núi đá Ả RậpLinh dương bướu giáp (Gazella gazella and Gazella subgutturosa) là con mồi chủ yếu.

Thêm vào đó, hươu nai, bò rừng and lợn rừng được săn bắt ở những vùng thảo nguyên, cùng với lừa hoang Trung Á và những loài Dê cừu (sơn dương). Thuỷ điểu và cá nước ngọt cũng là một phần trong khẩu phần ăn của thung lũng sông Jordan. Những xương động vật ở Salibiya I (12,300 – 10,800 năm trước nay) đã được giải thích là bằng chứng cho thấy hoạt động săn bắt cộng đồng bằng lưới, tuy nhiên, niên đại cacbon phóng xạ lại quá cũ so với di tích văn hóa của khu định cư này, cho thấy các mẫu vật đã bị ô nhiễm.[31]

Sự phát triển của nông nghịệp

[edit]

Một loại bánh mì giống bánh mì pita đã được tìm thấy từ năm 12.500 trước Công nguyên và được cho là do người Natufian làm ra. Loại bánh này được làm từ các hạt ngũ cốc hoang dã và củ của một loại cói, nghiền thành bột.[32]

Theo một giả thuyết, có một thay đổi khí hậu đột ngột đã xảy ra, sự kiện Younger Dryas (c. 10,800 to 9500 TCN), đã thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp. Sự kiện Younger Dryas là sự gián đoạn kéo dài 1000 năm trong sự gia tăng nhiệt độ bắt đầu từ Last Glacial Maximum, khiến cho hạn hán đột ngột xảy ra tại Levant. Điều này có thể khiến cho các nguồn ngũ cốc hoang dã bị tuyệt diệt, không đủ sức để cạnh tranh với các loại cây bụi khô cằn, nhưng do vậy đã kích thích quần thể phải tự cung tự cấp dẫn tới duy trì một quần thể định cư tương đối rộng lớn. Bằng cách dọn sạch bụi rậm và trồng hạt giống lấy từ nơi khác, họ bắt đầu thực hành trồng trọt. Tuy nhiên, giả thuyết về nguồn gốc của nông nghiệp này đang gây tranh cãi trong cộng đồng khoa học.[33]

Thuần hoá chó

[edit]

Địa điểm văn hoá Natufian ở Ain Mallaha, Israel, niên đại 12,000 TCN, hài cốt của một người lớn tuổi và một chú cho khoảng 4 đến 5 tuổi đã được chôn cùng nhau. Tại một địa điểm Natufian khác ở hang Hayonim, những di cốt người được tìm thấy chôn cùng với hai di cốt họ chó.

Di truyền học khảo cổ

[edit]
Phân tích thành phần chính của các quần thể Tây Âu-Á cổ đại, bao gồm cả người Natufian. Người Natufian tụ tập cùng với các quần thể Trung Đông hiện đại.[34]

Quần thể có quan hệ với văn hoá Natufian được hình thành bởi mặt di truyền bởi sự kết hợp của một quần thể giống với quần thể Tây Âu Á, chia sẻ tổ tiên xa xưa với người Săn bắt hái lượmChâu Âu, và Basal Eurasians của nguyên gốc bản địa A Rập.[citation needed] Vallini và đồng sự. (2024) mô hình hoá số lượng của tổ tiên Basal Eurasian giữa những người Natufians ở mức khoảng 15%, với phần còn lại thì trở nên liên kết với những nguồn Tây Ấu Á.[35]

Quần thể Natufian cũng thể hiện đường dây liên kết với những mẫu vật thời kì đá cũ Paleolithic Taforalt, những người đã tạo ra thời kì đồ đá cũ trên (Epipaleolithic) thuộc văn hoá Iberomaurusian của Maghreb, thời kì văn hoá đồ đá mới tiền gốm (Pre-Pottery Neolithic) ở Levant, thời kì đá mới sớm Ifri N'Amr Ou Moussa và thời kì đá mới muộn, văn hoá Kelif el Boroud tại North Africa. Với các mẫu liên quan đến các nền văn hóa sớm hơn này đều chia sẻ một thành phần bộ gen chung được gọi là "thành phần Natufian", đã phân tách khỏi dòng gen Tây Âu Á ~26,000 năm về trước, và gần liên hệ với dòng gen Arabian. Các sự kiện dòng gen qua lại hai chiều có thể xảy ra giữa các nhóm này cũng đã được gợi ý, với bằng chứng cụ thể về mối quan hệ giữa người Natufians và người Iberomaurusians.[36][37]

Liên hệ giữa người Natufians và những người Neolithic Levantines, Người săn bắt hái lượm Kavkaz (Caucasus hunter-gatherers, CHG), người Anatonian và nông dân Iranian được cho là đã làm giảm sự biến đổi di truyền trong các quần thể sau này ở Trung Đông.[citation needed] Di cư từ vùng Cận Đông cũng hướng về Châu Phi, và những người giống với Tây Ấu Á trong quần thể của Horn of Africa được cho thấy rõ nét nhất ở Levant thời kì đá mới, và có thể liên quan đến sự lan truyền của hệ ngôn ngữ Phi Á.[citation needed] Lazaridis và đồng sự. (2016) không tìm thấy mối quan hệ di truyền lớn hơn giữa người Natufian và người Châu Phi cận Sahara so với mối quan hệ tồn tại giữa người Châu Phi cận Sahara và các quần thể cổ đại khác ở Tây Âu Á, và cũng tuyên bố rằng tổ tiên của một nhóm dân cư nguyên thủy từ Bắc Phi không thể được kiểm tra vì người Bắc Phi hiện đại phần lớn là hậu duệ của những nhóm dân cư di cư muộn từ Âu Á.[38] Tuy vậy, Daniel Shriner (2018), sử dụng dân số hiện đại làm tài liệu tham khảo, đã tìm thấy 28% tổ tiên là người châu Phi nhiễm sắc thể thường trong các mẫu Natufian, với 21,2% liên quan đến Bắc Phi và 6,8% liên quan đến các dân số nói tiếng Omotic ở miền nam Ethiopia, điều này cho thấy nguồn hợp lý cho nhóm gen E ở người Natufian; theo Shriner, các mẫu Natufian có 61,2% tổ tiên liên quan đến người Ả Rập và 10,8% tổ tiên liên quan đến người Tây Á.[39]

Như Rosa Fregel đã tóm lược, một bản thảo sau đó từ Lazaridis và đồng sự. (2018) đã phản đối kết luận của Loosdrecht và lập luận cho một thành phần nhỏ châu Phi cận Sahara của người Natufian, nêu ra rằng "[người Iberomaurusian của] Taforalt có thể được mô hình hóa tốt hơn như một sự pha trộn giữa thành phần Dzudzuana và thành phần châu Phi cận Sahara" (hoặc một thành phần Bắc Phi cổ đại và hiện đã tuyệt chủng đã phân kỳ trước cuộc di cư ra khỏi châu Phi) và "cũng lập luận rằng (...) người Taforalt (...) đã đóng góp vào thành phần di truyền của người Natufian chứ không phải ngược lại". Fregel tóm lại rằng "Cần có thêm bằng chứng để xác định nguồn gốc cụ thể của quần thể thời kỳ đồ đá cũ muộn ở Bắc Phi".[40]

Trong bài báo năm 2017 của họ, Ranajit Das, Paul Wexler, Mehdi Pirooznia và Eran Elhaik đã phân tích nghiên cứu của Lazaridis và đồng bọn. (2016) kết luận rằng người Natufian, với một mẫu vật của Neolithic Levantine, tập trung ở gần khu vực hiện nay là Palestinians và Bedouins, và cũng "giao phối chéo" với Yemenite Jews.[41] Ferreira cùng đồng bọn (2021) và Almarri cùng đồng bọn. (2021) tìm thấy tổ tiên người Natufians cùng nhóm với người Arabian, như là Saudi Arabians và Yemenis, được chia ra phần lớn từ tổ tiên của họ từ những người săn bắt hái lượm giống với Natufian bản địa và có ít nguồn từ người Neolithic Anatolian hơn là Levantines.[42][43] Sirak và đồng bọn. (2024) tìm thấy rằng trung cổ Socotra (người Soqotri), gần gũi với người hiện đại Saudis, Yemenis và Bedouins, có một thành phần chính đó là "tối đa trong Canh Tân muộn (Epipaleolithic) người Natufian săn bắt hái lượm đến từ Levant".[44]

Ngôn ngữ

[edit]

Alexander Militarev, Vitaly Shevoroshkin đã liên kết văn hoá Natufian với ngôn ngữ Tiền-Phi Á,[45][46] mà tiếp theo họ tin rằng có nguồn gốc từ Levant. Một vài học giả, ví dụ như Christopher Ehret, Roger Blench v..v. cho rằng Urheimat Afroasiatic được tìm thấy ở Bắc Phi hoặc Đông Bắc Phi, có thể ở khu vực Ai Cập, Sahara, Horn of Africa hoặc Sudan.[47][48][49] Trong nhóm này, Ehret, người giống như Militarev tin rằng ngữ hệ Phi Á (Afroasiatic) có thể đã tồn tại sẵn tại thời kì Natufian, sẽ liên kết người Natufian chỉ với nhánh nguyên thủy Semitic ở Cận Đông của ngôn ngữ Phi-Á..

Di chỉ

[edit]

Văn hóa Natufian đã được ghi chép tại hàng chục địa điểm. Khoảng 90 địa điểm đã được khai quật, bao gồm:[50]

Xem thêm

[edit]
  • Prehistory of the Levant
  • Proto-Afroasiatic language
  • Afroasiatic Urheimat
  1. ^ "Natufian". Oxford English Dictionary (Online ed.). Oxford University Press. (Subscription or participating institution membership required.)
  2. ^ a b Moore, Andrew M. T.; Hillman, Gordon C.; Legge, Anthony J. (2000), Village on the Euphrates: From Foraging to Farming at Abu Hureyra, Oxford: Oxford University Press, ISBN 978-0-19-510806-4
  3. ^ Grosman, Leore (2013). "The Natufian Chronological Scheme – New Insights and their Implications". In Bar-Yosef, Ofer; Valla, François R. (eds.). Natufian Foragers in the Levant: Terminal Pleistocene Social Changes in Western Asia (1 ed.). New York: Berghahn Books. pp. 622–627. doi:10.2307/j.ctv8bt33h. ISBN 978-1-879621-45-9. JSTOR j.ctv8bt33h – via JSTOR.
  4. ^ Arranz-Otaegui, Amaia; Gonzalez Carretero, Lara; Ramsey, Monica N.; Fuller, Dorian Q.; Richter, Tobias (31 July 2018). "Archaeobotanical evidence reveals the origins of bread 14,400 years ago in northeastern Jordan". Proceedings of the National Academy of Sciences. 115 (31): 7925–7930. Bibcode:2018PNAS..115.7925A. doi:10.1073/pnas.1801071115. ISSN 0027-8424. PMC 6077754. PMID 30012614.
  5. ^ Liu, Li; Wang, Jiajing; Rosenberg, Danny; Zhao, Hao; Lengyel, György; Nadel, Dani (1 October 2018). "Fermented beverage and food storage in 13,000 y-old stone mortars at Raqefet Cave, Israel: Investigating Natufian ritual feasting". Journal of Archaeological Science: Reports. 21: 783–793. Bibcode:2018JArSR..21..783L. doi:10.1016/j.jasrep.2018.08.008. ISSN 2352-409X.
  6. ^ Eitam, David (2019). "'Yo-ho-ho, and a bottle of [beer]!' (R.L. Stevenson) no beer but rather cereal-Food. Commentary: Liu et al. 2018". Journal of Archaeological Science: Reports. 28: 101913. doi:10.1016/j.jasrep.2019.101913.
  7. ^ Lazaridis, Iosif; Nadel, Dani; Rollefson, Gary; Merrett, Deborah C.; Rohland, Nadin; Mallick, Swapan; Fernandes, Daniel; Novak, Mario; Gamarra, Beatriz; Sirak, Kendra; Connell, Sarah (2016). "Genomic insights into the origin of farming in the ancient Near East" (PDF). Nature. 536 (7617): 419–424. Bibcode:2016Natur.536..419L. doi:10.1038/nature19310. PMC 5003663. PMID 27459054. Fig. 4. "Our data document continuity across the transition between hunter– gatherers and farmers, separately in the southern Levant and in the southern Caucasus–Iran highlands. The qualitative evidence for this is that PCA, ADMIXTURE, and outgroup f3 analysis cluster Levantine hunter–gatherers (Natufians) with Levantine farmers, and Iranian and CHG with Iranian farmers (Fig. 1b and Extended Data Figs 1, 3). We confirm this in the Levant by showing that its early farmers share significantly more alleles with Natufians than with the early farmers of Iran" Epipaleolithic Natufians were substantially derived from the Basal Eurasian lineage. "We used qpAdm (ref. 7) to estimate Basal Eurasian ancestry in each Test population. We obtained the highest estimates in the earliest populations from both Iran (66±13% in the likely Mesolithic sample, 48±6% in Neolithic samples), and the Levant (44±8% in Epipalaeolithic Natufians) (Fig. 2), showing that Basal Eurasian ancestry was widespread across the ancient Near East. [...] The idea of Natufians as a vector for the movement of Basal Eurasian ancestry into the Near East is also not supported by our data, as the Basal Eurasian ancestry in the Natufians (44±8%) is consistent with stemming from the same population as that in the Neolithic and Mesolithic populations of Iran, and is not greater than in those populations (Supplementary Information, section 4). Further insight into the origins and legacy of the Natufians could come from comparison to Natufians from additional sites, and to ancient DNA from North Africa."
  8. ^ a b Boyd, Brian (1999). "'Twisting the kaleidoscope': Dorothy Garrod and the 'Natufian Culture'". In Davies, William; Charles, Ruth (eds.). Dorothy Garrod and the progress of the Palaeolithic. Oxford: Oxbow. pp. 209–223. ISBN 978-1-78570-519-9. Cite error: The named reference ":0" was defined multiple times with different content (see the help page).
  9. ^ Zalloua, Pierre A.; Matisoo-Smith, Elizabeth (6 January 2017). "Mapping Post-Glacial expansions: The Peopling of Southwest Asia". Scientific Reports. 7: 40338. Bibcode:2017NatSR...740338P. doi:10.1038/srep40338. ISSN 2045-2322. PMC 5216412. PMID 28059138.
  10. ^ De Groote, Isabelle; Humphrey, Louise T. (22 August 2016). "Characterizing evulsion in the Later Stone Age Maghreb: Age, sex and effects on mastication" (PDF). Quaternary International. 413: 50–61. Bibcode:2016QuInt.413...50D. doi:10.1016/j.quaint.2015.08.082. ISSN 1040-6182.
  11. ^ Richter, Tobias (2011). "Interaction before Agriculture: Exchanging Material and Sharing Knowledge in the Final Pleistocene Levant" (PDF). Cambridge Archaeological Journal. 21: 95–114. doi:10.1017/S0959774311000060.
  12. ^ Maher, Tobias; Richter, Lisa A.; Stock, Jay T. (2012). "The Pre-Natufian Epipaleolithic: Long-Term Behavioral Trends in the Levant". Evolutionary Anthropology. 21 (2): 69–81. doi:10.1002/evan.21307. PMID 22499441.
  13. ^ Weiss, E; Kislev, ME; Simchoni, O; Nadel, D; Tschauner, H (2008). "Plant-food preparation area on an Upper Paleolithic brush hut floor at Ohalo II, Israel". Journal of Archaeological Science. 35 (8): 2400–2414. Bibcode:2008JArSc..35.2400W. doi:10.1016/j.jas.2008.03.012.
  14. ^ Nadel, D; Piperno, DR; Holst, I; Snir, A; Weiss, E (2012). "New evidence for the processing of wild cereal grains at Ohalo II, a 23 000-year-old campsite on the shore of the Sea of Galilee, Israel". Antiquity. 86 (334): 990–1003. doi:10.1017/s0003598x00048201.
  15. ^ Weiss, Ehud; Wetterstrom, Wilma; Nadel, Dani; Bar-Yosef, Ofer (29 June 2004). "The broad spectrum revisited: Evidence from plant remains". Proceedings of the National Academy of Sciences. 101 (26): 9551–9555. Bibcode:2004PNAS..101.9551W. doi:10.1073/pnas.0402362101. ISSN 0027-8424. PMC 470712. PMID 15210984.
  16. ^ Brace, C. Loring; et al. (2006). "The questionable contribution of the Neolithic and the Bronze Age to European craniofacial form". PNAS. 103 (1): 242–247. Bibcode:2006PNAS..103..242B. doi:10.1073/pnas.0509801102. PMC 1325007. PMID 16371462. The Natufian sample from Israel is also problematic because it is so small, being constituted of three males and one female from the Late Pleistocene Epipalaeolithic (34) of Israel, and there was no usable Neolithic sample for the Near East... the small Natufian sample falls between the Niger-Congo group and the other samples used. Fig. 2 shows the plot produced by the first two canonical variates, but the same thing happens when canonical variates 1 and 3 (not shown here) are used. This placement suggests that there may have been a Sub-Saharan African element in the make-up of the Natufians (the putative ancestors of the subsequent Neolithic)
  17. ^ Simmons, Alan H. (2011-04-15). The Neolithic Revolution in the Near East: Transforming the Human Landscape. University of Arizona Press. p. 72. ISBN 978-0-8165-2966-7.
  18. ^ Fitzhugh, Ben; Habu, Junko (2012-12-06). Beyond Foraging and Collecting: Evolutionary Change in Hunter-Gatherer Settlement Systems. Springer Science & Business Media. p. 132. ISBN 978-1-4615-0543-3.
  19. ^ Bar-Yosef, Ofer; Belfer-Cohen, Anna (1989). "The Origins of Sedentism and Farming Communities in the Levant". Journal of World Prehistory. 3 (4): 447–498. doi:10.1007/bf00975111.
  20. ^ a b Belfer-Cohen, Anna (1991). "The Natufian in the Levant". Annual Review of Anthropology. 20: 167–186. doi:10.1146/annurev.an.20.100191.001123. ISSN 0084-6570. JSTOR 2155798.
  21. ^ Byrd, Brian F. (1 June 1989). "The Natufian: Settlement variability and economic adaptations in the Levant at the end of the Pleistocene". Journal of World Prehistory. 3 (2): 159–197. doi:10.1007/BF00975760. ISSN 1573-7802.
  22. ^ Weinstein-Evron, Mina; Yeshurun, Reuven; Ashkenazy, Hila; Chasan, Rivka; Rosenberg, Danny; Bachrach, Noga; Boaretto, Elisabetta; Caracuta, Valentina; Kaufman, Daniel; וינשטיין-עברון, מינה; ישורון, ראובן (2018). "After 80 Years – Deeper in the Natufian Layers of el-Wad Terrace, Mount Carmel, Israel / לאחר שמונים שנה: סיכום עונות החפירה 2012-2007 בשכבות הנאטופיות של טרסת מערת הנחל (אל-ואד), הכרמל, ישראל". Mitekufat Haeven: Journal of the Israel Prehistoric Society / מתקופת האבן. 48: 5–61. ISSN 0334-3839. JSTOR 26579622.
  23. ^ Boyd, Brian (1 June 2006). "On 'sedentism' in the Later Epipalaeolithic (Natufian) Levant". World Archaeology. 38 (2): 164–178. doi:10.1080/00438240600688398. ISSN 0043-8243.
  24. ^ Tsakalos, Evangelos; Efstratiou, Nikos; Bassiakos, Yannis; Kazantzaki, Maria; Filippaki, Eleni (2021-08-01). "Early Cypriot Prehistory: On the Traces of the Last Hunters and Gatherers on the Island—Preliminary Results of Luminescence Dating". Current Anthropology. 62 (4): 412–425. doi:10.1086/716100. ISSN 0011-3204.
  25. ^ Grosman, L.; Munro, N. D.; Belfer-Cohen, A. (2008). "A 12,000-year-old Shaman burial from the southern Levant (Israel)". Proceedings of the National Academy of Sciences. 105 (46): 17665–17669. Bibcode:2008PNAS..10517665G. doi:10.1073/pnas.0806030105. ISSN 0027-8424. PMC 2584673. PMID 18981412.
  26. ^ Hogenboom, Melissa (24 May 2016), Secrets of the world's oldest funeral feast, earth, BBC, retrieved 24 May 2016
  27. ^ Kislev, ME; Hartmann, A; Bar-Yosef, O (2006). "Early domesticated fig in the Jordan Valley". Science. 312 (5778): 1372–1374. Bibcode:2006Sci...312.1372K. doi:10.1126/science.1125910. PMID 16741119.
  28. ^ "'World's oldest brewery' found in a cave in Israel, say researchers". BBC. 15 September 2018.
  29. ^ Friesem, David E.; Abadi, Itay; Shaham, Dana; Grosman, Leore (30 September 2019). "'Lime plaster covering burials 12,000 years ago presents a technological leap forward at the end of the Palaeolithic". Cambridge University Press. 1: e9. doi:10.1017/ehs.2019.9. PMC 10427327. PMID 37588409.
  30. ^ Bar-Yosef, Offer. "The Natufian Culture in the Levant, Threshold to the Origins of Agriculture" (PDF). Evolutionary Anthropology.
  31. ^ Mithen, Steven (2006). After the Ice: A Global Human History, 20,000–5000 BC. Harvard University Press. ISBN 978-0-674-01999-7.
  32. ^ "World's oldest bread found at prehistoric site in Jordan", The Jerusalem Post, 2018, retrieved 16 July 2018
  33. ^ Balter, Michael (2010), "Archaeology: The Tangled Roots of Agriculture", Science, 327 (5964): 404–406, doi:10.1126/science.327.5964.404, PMID 20093449
  34. ^ Feldman, Michal; Fernández-Domínguez, Eva; Reynolds, Luke; Baird, Douglas; Pearson, Jessica; Hershkovitz, Israel; May, Hila; Goring-Morris, Nigel; Benz, Marion; Gresky, Julia; Bianco, Raffaela A. (19 March 2019). "Late Pleistocene human genome suggests a local origin for the first farmers of central Anatolia". Nature Communications. 10 (1): 1218. Bibcode:2019NatCo..10.1218F. doi:10.1038/s41467-019-09209-7. ISSN 2041-1723. PMC 6425003. PMID 30890703.
  35. ^ Vallini, Leonardo; Zampieri, Carlo; Shoaee, Mohamed Javad; Bortolini, Eugenio; Marciani, Giulia; Aneli, Serena; Pievani, Telmo; Benazzi, Stefano; Barausse, Alberto; Mezzavilla, Massimo; Petraglia, Michael D. (2024-03-25). "The Persian plateau served as hub for Homo sapiens after the main out of Africa dispersal". Nature Communications. 15 (1): 1882. Bibcode:2024NatCo..15.1882V. doi:10.1038/s41467-024-46161-7. ISSN 2041-1723. PMC 10963722. PMID 38528002. supplementary data 1-15; 11
  36. ^ Fregel, Rosa; Méndez, Fernando L.; Bokbot, Youssef; Martín-Socas, Dimas; Camalich-Massieu, María D.; Santana, Jonathan; Morales, Jacob; Ávila-Arcos, María C.; Underhill, Peter A.; Shapiro, Beth; Wojcik, Genevieve (26 June 2018). "Ancient genomes from North Africa evidence prehistoric migrations to the Maghreb from both the Levant and Europe". Proceedings of the National Academy of Sciences. 115 (26): 6774–6779. Bibcode:2018PNAS..115.6774F. doi:10.1073/pnas.1800851115. ISSN 0027-8424. PMC 6042094. PMID 29895688.
  37. ^ van de Loosdrecht, Marieke; Bouzouggar, Abdeljalil; Humphrey, Louise; Posth, Cosimo; Barton, Nick; Aximu-Petri, Ayinuer; Nickel, Birgit; Nagel, Sarah; Talbi, El Hassan; El Hajraoui, Mohammed Abdeljalil; Amzazi, Saaïd (4 May 2018). "Pleistocene North African genomes link Near Eastern and sub-Saharan African human populations". Science. 360 (6388): 548–552. Bibcode:2018Sci...360..548V. doi:10.1126/science.aar8380. ISSN 0036-8075. PMID 29545507.
  38. ^ Lazaridis, Iosif; Nadel, Dani; Rollefson, Gary; Merrett, Deborah C.; Rohland, Nadin; Mallick, Swapan; Fernandes, Daniel; Novak, Mario; Gamarra, Beatriz; Sirak, Kendra; Connell, Sarah (25 July 2016). "Genomic insights into the origin of farming in the ancient Near East". Nature. 536 (7617): 419–424. Bibcode:2016Natur.536..419L. doi:10.1038/nature19310. ISSN 1476-4687. PMC 5003663. PMID 27459054.
  39. ^ Shriner, Daniel (2018). "Re-analysis of Whole Genome Sequence Data From 279 Ancient Eurasians Reveals Substantial Ancestral Heterogeneity". Frontiers in Genetics. 9: 268. doi:10.3389/fgene.2018.00268. ISSN 1664-8021. PMC 6062619. PMID 30079081.
  40. ^ Fregel, Rosa (17 November 2021). Paleogenomics of the Neolithic Transition in North Africa. Brill. ISBN 978-90-04-50022-8. However, a preprint from Lazaridis et al. (2018) has contested this conclusion based on new evidence from Paleolithic samples from the Dzudzuana site in Georgia (25,000 years BCE). When these samples are considered in the analysis, Taforalt can be better modeled as a mixture of a Dzudzuana component and a sub-Saharan African component. They also argue that it is the Taforalt people who contributed to the genetic composition of Natufians and not the other way around. More evidence will be needed to determine the specific origin of the North African Upper Paleolithic populations, but the presence of an ancestral U6 lineage in the Dzudzuana people is consistent with this population being related to the back migration to Africa.
  41. ^ Das, Ranajit; Wexler, Paul; Pirooznia, Mehdi; Elhaik, Eran (2017-06-21). "The Origins of Ashkenaz, Ashkenazic Jews, and Yiddish". Frontiers in Genetics. 8: 87. doi:10.3389/fgene.2017.00087. ISSN 1664-8021. PMC 5478715. PMID 28680441.
  42. ^ Ferreira, Joana C; Alshamali, Farida; Montinaro, Francesco; Cavadas, Bruno; Torroni, Antonio; Pereira, Luisa; Raveane, Alessandro; Fernandes, Veronica (4 September 2021). "Projecting Ancient Ancestry in Modern-Day Arabians and Iranians: A Key Role of the Past Exposed Arabo-Persian Gulf on Human Migrations". Genome Biology and Evolution. 13 (9): evab194. doi:10.1093/gbe/evab194. ISSN 1759-6653. PMC 8435661. PMID 34480555. Modern Saudi Arabian and Yemeni samples clustered tightly, overlapping with the three Natufian samples, and were close to the Levant Pre-Pottery Neolithic B and C (PPNB and PPNC) and Levant Bronze Age samples.
  43. ^ Almarri, Mohamed A.; Haber, Marc; Lootah, Reem A.; et al. (2021). "The genomic history of the Middle East". Cell. 184 (18): 4612–4625. doi:10.1016/j.cell.2021.07.013. PMC 8445022. PMID 34352227.
  44. ^ Sirak, Kendra; Jansen Van Rensburg, Julian; Brielle, Esther; Chen, Bowen; Lazaridis, Iosif; Ringbauer, Harald; Mah, Matthew; Mallick, Swapan; Micco, Adam; Rohland, Nadin; Callan, Kimberly (8 February 2024). "Medieval DNA from Soqotra points to Eurasian origins of an isolated population at the crossroads of Africa and Arabia". Nature Ecology & Evolution. 8 (4): 817–829. Bibcode:2024NatEE...8..817S. doi:10.1038/s41559-024-02322-x. ISSN 2397-334X. PMC 11009077. PMID 38332026.
  45. ^ Winfried Nöth (1994). Origins of Semiosis: Sign Evolution in Nature and Culture. Walter de Gruyter. p. 293. ISBN 978-3-11-087750-2.
  46. ^ Roger Blench, Matthew Spriggs (2003). Archaeology and Language IV: Language Change and Cultural Transformation. Routledge. p. 70. ISBN 978-1-134-81623-1.
  47. ^ Blench R (2006) Archaeology, Language, and the African Past, Rowman Altamira, ISBN 0-7591-0466-2, ISBN 978-0-7591-0466-2, https://books.google.com/books?doi=esFy3Po57A8C
  48. ^ Ehret, Christopher; Keita, S. O. Y.; Newman, Paul (2004). "The Origins of Afroasiatic". Science. 306 (5702): 1680.3–1680. doi:10.1126/science.306.5702.1680c. PMID 15576591.
  49. ^ Bernal, Martin (1987). Black Athena: The linguistic evidence. Rutgers University Press. ISBN 978-0-8135-3655-2.
  50. ^ Arranz-Otaegui, Amaia; González Carretero, Lara; Roe, Joe; Richter, Tobias (2018). ""Founder crops" v. wild plants: Assessing the plant-based diet of the last hunter-gatherers in southwest Asia". Quaternary Science Reviews. 186: 263–283. Bibcode:2018QSRv..186..263A. doi:10.1016/j.quascirev.2018.02.011. ISSN 0277-3791.
  51. ^ Neeley, Michael P.; Hill, J. Brett (2017). "Archaeological and Geomorphological Investigations of the Late Epipaleolithic in West-Central Jordan: TBAS 212 in a Regional Context". ResearchGate.

Cite error: A list-defined reference named "Barker" is not used in the content (see the help page).
Cite error: A list-defined reference named "Bar-Yosef 29" is not used in the content (see the help page).
Cite error: A list-defined reference named "Bar-Yosef 159" is not used in the content (see the help page).
Cite error: A list-defined reference named "BBC AinSak" is not used in the content (see the help page).
Cite error: A list-defined reference named "Bellwood" is not used in the content (see the help page).
Cite error: A list-defined reference named "Burston" is not used in the content (see the help page).
Cite error: A list-defined reference named "Clutton-Brock1995" is not used in the content (see the help page).
Cite error: A list-defined reference named "Ehret" is not used in the content (see the help page).
Cite error: A list-defined reference named "Kottak2005" is not used in the content (see the help page).
Cite error: A list-defined reference named "Munro2003" is not used in the content (see the help page).
Cite error: A list-defined reference named "NationalGeo2008" is not used in the content (see the help page).

Cite error: A list-defined reference has no name (see the help page).